Pages

Monday, February 18, 2013

Những cái Tết xa nhà


Tết luôn là một hương vị đặc biệt cho mỗi con người VN. Tôi cũng vậy.

Khi còn bé, những năm 60 của thế kỷ trước, cái Tết với tôi vô cùng háo hức cũng như với bao đứa trẻ con khi ấy. Được nghỉ học, được sắm quần áo mới, được phong bao và được đốt pháo. Lũ trẻ không bận bịu gì với việc chuẩn bị Tết như người lớn, chúng càng háo hức đón Tết. Món đốt pháo là món ưa thích nhất của tụi con trai chúng tôi.
Hồi đó ít pháo lắm, mỗi gia đình được phân phối 1 bánh pháo Bình Đà, gói sẵn trong túi hàng Tết được mua bằng tem phiếu tại các cửa hàng mậu dịch quốc doanh (gia đình đông người thì được 2 bánh pháo). Chúng tôi được chia một ít pháo từ bánh pháo đó, số còn lại bố mẹ dành cho đốt vào lúc giao thừa. Chúng tôi thường dành dụm tiền cá nhân, trong đó có tiền mừng tuổi để đi mua pháo đốt thêm, không cần phải tem phiếu gì nhưng bao giờ cũng có sẵn bên ngoài thị trường tự do. Ngoài loại pháo Bình Đà rất phổ biến to bằng đầu đũa, hồi đó chúng tôi còn chơi thêm pháo tép (to bằng một phần ba pháo Bình Đà, nhiều màu sắc hơn và nổ nhỏ hơn), hoặc pháo đùng (to bằng ngón tay, nổ khá to). Cuối cùng là món pháo dây, cháy vào buổi tối, đêm, ánh sáng cháy lóe sáng kiểu sao băng rất đẹp. Lũ trẻ con hay chơi trò đốt pháo cầm tay, cậu nào cầm lâu nhất, thậm chí nổ ngay trên tay là được kính nể. Còn đốt xong rồi quẳng ra xa cho nổ là chuyện tầm thường. Loại kém nhất thì đặt pháo ở vách nhà, vách cửa rồi cầm que hương đốt. Tôi luôn được kính nể qua những lần đốt pháo Tết, dù rằng nhiều khi pháo nổ đau cả tay. Lúc nhỏ tôi thường đốt pháo với bọn trẻ trong xóm. Khi lớn lên chúng tôi các bạn học cùng lớp rủ nhau ra Bờ Hồ, đốt pháo cho đến lúc giao thừa, khi người lớn nghe thơ Bác Hồ chúc Tết xong mới giải tán về nhà.
Cái Tết luôn gắn với gia đình. Tôi năm nào cũng được bố mẹ sáng mùng một Tết cho về nhà bác chị gái bố tôi ở làng Thủ Lệ ăn Tết cùng bác. Đền Voi Phục luôn có những trò chơi dân gian những ngày Tết, nhưng tôi chỉ nhìn qua vì không có thời gian dừng chơi.
Do vậy những cái Tết xa nhà là những cái Tết mà tôi rất khó quên.
Tết sơ tán xa nhà đầu tiên
Tết đầu tiên xa nhà là Tết Mậu Thân 1968. Năm ấy tôi sơ tán ở huyện Tân Yên, Bắc Giang theo trường mẹ tôi học đại học khi đó (đại học Chính trị, Bộ Giáo dục). Tết 1967 tôi vẫn được về HN ăn Tết. Tết 1968 tôi không nhớ lý do gì nhưng tôi và mẹ tôi ở lại Bắc Giang, không về HN như Tết năm trước.
Năm đó ở miền Nam là một Tết vô cùng đặc biệt với phong trào Tổng tiến công và nổi dậy của cả miền Nam. Nhưng dường như cái không khí tổng tiến công ấy chẳng ảnh hưởng là bao đến cái làng nông thôn Bắc Giang khi đó. Có chăng loa đài hát nhiều bài giải phóng hơn, như “Tiến về Sài Gòn”. “Bão nổi lên rồi”,..
Thế là chẳng có nhiều phong bao mừng tuổi như ở HN, nơi tôi có nhiều người thân, các dì chú, ông bà, hàng xóm. Sau đó là hầu như không có pháo để đốt. Tôi được mấy cô cấp dưỡng cho ít pháo Bình Đà, đốt một tý là hết. Đêm giao thừa không nghe phảo nổ nhiều như ở HN. Làng quê Bắc Giang những năm chống Mỹ cái Tết cũng đơn sơ. Trẻ con nông thôn cũng khác với trẻ con HN. Chúng có áo mới rõ hơn trẻ con thành phố, dù sao trẻ con thành phố trong năm cũng còn được có áo mới. Chúng có mấy trò chơi dân gian như đánh khăng, ném còn. Tôi cũng tham gia cùng trẻ con trong làng. Chúng còn kéo nhau ra ruộng chơi trò vật nhau. Tôi cũng tham gia nhưng thường thua vì không có miếng đánh rõ ràng như trẻ nông thôn ở đó.
Mấy ngày Tết tôi cùng lũ bạn cùng lớp đến thăm nhà nhau. Đến đâu cũng được mời ăn cơm, mà món thịt đông là điển hình cùng bánh chưng được gói tròn như bánh tét miền Nam. Tôi không lý giải được vì sao ở nông thôn Bắc Giang (cho đến tận bây giờ) lại gói bánh chưng tròn chứ không vuông như các nơi khác. Và rồi bảnh tét trong Nam có liên hệ gì với bánh chưng tròn ở Bắc Giang? Một thứ bánh tôi cũng được thưởng thức nhiều khi đó là bánh gio. Tôi còn được xem từ khi người ta đốt cây gio, lấy tro lọc nước hòa bột gạo rồi gói thành bánh trước khi luộc.
Cảnh ngày Tết ở đồng bằng Bắc Bộ
Một cái Tết xa nhà, xa HN nhưng đã cho tôi thêm trải nghiệm về Tết ở nông thôn Bắc Bộ.
Từ Tết 1969 đến Tết 1974, tôi luôn ăn Tết ở HN cùng gia đình. Cho tới Tết 1975, tôi đón Tết đầu tiên xa Tổ quốc, xa VN: Tết ở Kisinhôp, Moldova.
Những cái Tết thời sinh viên
Tết 1975, chúng tôi mới thi học kỳ đầu tiên. Kỳ thi khá vất vả với chúng tôi, những học sinh khi đó chỉ học tiếng Nga ở VN rồi sang học ngay năm thứ nhất. Kỳ thi vất vả vì không chỉ là kỳ thi đầu tiên, mà chúng tôi phải trả môn thi Lịch sử Đảng CSLX, với chúng tôi (dân Toán) là môn vô cùng hóc búa (mà chúng tôi vẫn gọi là môn nhiều chữ để phân biết với những môn Toán ít chữ mà nặng về logic).
Do là năm thứ nhất nên chúng tôi chẳng phải làm gì, các anh chị năm trên lo hết. Năm ấy đâu như khoa Toán và khoa Lý tổ chức đón Tết chung vì khoa Toán ít người lắm. Về sau Toán Lý có tách ra vì nếu đón Tết chung cũng không có chỗ.
Những ngày Tết VN, bao giờ các thầy cô ở trường, ở khoa ngoại quốc cũng có lời chúc mừng nhân dịp năm mới. Ngày hôm 30 Tết học xong chúng tôi thường về ngay ký túc xá (bình thường còn ở lại trường làm thí nghiệm, hay đọc sách trên thư viện) để chuẩn bị cho bữa tối. Sau này lên năm trên chúng tôi thường phải chịu trách nhiệm tổ chức Tết cho khoa Toán. Bao giờ cũng có món nem rán, bánh đa thường do các bạn năm thứ nhất mới đem sang, hoặc ai đó về phép đem sang, hoặc bố mẹ ai đó gửi quà. Nhân thì thịt lợn không thiếu, có cả miến cũng từ VN đem sang, còn lại là bắp cải làm rau, hành thì cũng có. Trứng thì khi đó ở LX quá rẻ. Khoản mộc nhĩ hay nấm hương hình như không có.
Món tiếp theo bao giờ cũng có là thịt rán, cả lợn lẫn gà, tùy tình hình thực phẩm được bán ở các cửa hàng của thành phố. Ngoài ra có món xào gì đó nữa, thường là xào bắp cải với thịt lợn. Rượu vang ở Moldova thì không thiếu. Một món mà tôi hay trực tiếp  chuẩn bị là nộm. Chúng tôi thường thái nhỏ bắp cải, thêm ít cà rốt, rồi trộn dấm, đường, và có cả lạc rang giã nhỏ, cũng thường do ai đó mang từ VN sang. Địa điểm thường là 1 phòng toàn sinh viên VN sống, kê bàn thêm cho đủ, chuẩn bị bày đặt sao cho 8h tối 30 Tết là xong hết để đúng 8h tất cả quây quần bên 1 cái Rigonda của một anh/chị năm thứ 5 (sắp về nước nên bao giờ cũng sắm cái đài này) để nghe lời chúc Tết từ thủ đô HN. Lúc đó ai cũng bồi hồi nhớ nhà, nhất là các bạn năm thứ nhất mới sang. Giá trị nhất khoản nghe đài là được nghe tiếng pháo qua đài phát thanh. Tiếng pháo ấy làm cho mỗi chúng tôi thấy gần VN hơn. Hết lời chúc Tết của đài là chúng tôi nâng cốc chúc mừng năm mới và bắt đầu bữa tiệc (khá thịnh soạn so với các bữa cơm hàng ngày). Nhiều khi có các bạn Nga hay Môn cùng tham dự, các bạn đến chúc Tết chúng tôi. Sau khi đã vui vẻ ăn uống, thường chúng tôi đi chúc Tết các khoa khác, ở các ký túc xá khác.
Các bạn cùng lớp tôi đến chúc mừng các bạn VN nhân Tết 1979
Cuộc vui đón năm mới kéo dài tới khuya tùy theo tửu lượng của các bạn nam. Dù uống thế nào thì hôm sau chúng tôi vẫn đi học bình thường. Cái Tết xa VN chỉ có đúng một đêm giao thừa thế thôi.
Có một khoản mà tôi không quên được là những cành đào giả được chúng tôi làm ra vào dịp Tết. Cành đào ở Moldova thì không thiếu, chúng tôi chọn cành đẹp và chặt mang về ký túc xá. Các bạn nữ được phân công cắt giấy pơ-luer hồng làm giả hoa đào. Nhiều bạn khéo tay, cành đào trông rất đẹp. Không có bành chưng nhưng phần nào chúng tôi cũng đỡ nhớ Tết VN nhờ những cành đào này.
Tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên đi chặt cành đào với Hồng Sơn (VL80). Tết 1979 tôi và Sơn rủ nhau đi chặt cành đào chuẩn bị Tết. Sơn có con xe máy Voxkhot, để trong gara lâu ngày nên không nổ máy được. Tôi phải đẩy thật lực để giúp Sơn nổ máy. Do đấy quá sức nên tôi lả đi, chóng mặt phải nằm nghỉ một lúc rồi tôi ngồi sau Sơn lao ra ngoại thành Kisinhôp. Trời mùa đông rất trơn với băng tuyết, chúng tôi đi như làm xiếc trên đường. Sau khi chọn được 2 cành đẹp ở một cánh đồng toàn đào, chúng tôi đã cưa mang về.
Mới đây thôi nhưng Sơn đã xa rời chúng ta hơn 10 năm rồi.
Những cái Tết nghiên cứu sinh
Tôi tốt nghiệp đại học trường KGU năm 1979, về công tác tại trường ĐHBK HN. Nguyệt về sau tôi 1 năm. Đầu năm 1981 chúng tôi lập gia đình. Cuối năm 1982 tôi được nhà trường cử sang Pháp làm NCS. Liên tiếp các Tết 1983 đến 1986 tôi ăn Tết tại Pháp.
Những cái Tết khi tôi làm NCS tại Pháp khác nhiều so với những cái Tết sinh viên tại Liên Xô. Thành phố tôi học tập là Grenoble, một thành phố nhỏ nhưng có nhiều trường đại học và viện nghiên cứu khoa học nằm ở Tây – Nam nước Pháp. Tại đây cũng có nhiều Việt kiều, cả phe ta (theo chính phủ CHXHCN VN) và phe bên kia (vẫn hoài niệm với chính quyền Sài Gòn cũ). Hai hội Việt kiều này tổ chức ăn Tết riêng, bình thường họ rất ít giao lưu với nhau. Chúng tôi, những thực tập sinh và NCS từ VN, dĩ nhiên bao giờ cũng ăn Tết cùng hội Việt kiều phe ta.
Thực tập sinh và NCS VN đón Tết 1986 (cùng một bác vợ Việt Kiều)
Hội chủ yếu là những bác Việt kiều xa VN đã lâu, có nhiều bác là lính thợ (cách gọi những người VN mà chính quyền Pháp đưa sang Pháp từ thời chiến tranh thế giới thứ 2 để đánh nhau với nước Đức quốc xã), sau đó ở lại làm ăn sinh sống, nhiều bác lấy vợ đầm, con cái cháu chắt cả đống. Các bác ấy không được học hành nhiều nên rất quý chúng tôi, luôn tạo điều kiện giúp đỡ chúng tôi trong học tập. Trong hội cũng có một số trí thức, họ cũng rất quan tâm đến việc học hành của chúng tôi. Và ngày Tết họ mời chúng tôi đón Tết cùng họ (mà không phải, hay không được, đóng góp tiền). Chúng tôi cũng được đại sứ quán chỉ đạo tham gia đón Tết cùng Việt kiều. Chiều 30 Tết chúng tôi không đến trường hay đến viện, mà ra chỗ hội trường mà các bác Việt kiều đã thuê cho đêm đón Tết. Chúng tôi đông, trẻ khỏe nên được các bác ấy chỉ đạo làm các việc khác nhau. Việc nhiều công nhất là làm nem (mà khi đó mọi người toàn gọi là chả giò theo tiếng miền Nam). Việc này cá nhân tôi quá thạo từ hồi còn là sinh viên nên thường được phân công vào nhóm làm nem, rồi rán nem. Ở Pháp thì đồ ăn Tết đầy đủ hơn ở Liên Xô nhiều, có giò chả, bánh chưng (thường do các cửa hàng người Việt hoặc người Hoa làm). Có năm còn có cả cành đào từ VN sang, nếu năm đó có người của Đại sứ quán từ Paris xuống cũng ăn Tết. Nói chung chẳng khác gì đồ ăn, thức uống so với VN, thậm chí có cả dưa hành, mùi, húng hay mùi Tây, nước mắm, mắm tôm. Đến 6h tối thì giống như hồi ở Liên Xô, tất cả lại bắt đài tiếng nói VN nghe lời chúc Tết. Sau đó cùng nhau nâng cốc mừng một năm mới. Bác hội trưởng Việt kiều thế nào cũng phát biểu, tiếp theo là người của Đại sứ quán, nếu năm đó xuống dự cùng. Rồi tiếp theo là đại diện thực tập sinh và NCS. Bao giờ cũng có các bạn Pháp tham dự và họ cũng phát biểu. Có năm còn mời được cả ông quận trưởng quận mà có địa điểm liên hoan Tết, sau được biết ông ta là người của Đảng cộng sản Pháp.
Xong xuôi, đến khuya tiệc đón năm mới tan. Chúng tôi ở lại dọn dẹp rồi được các bác Việt kiều đưa về ký túc xá. Đến lúc 12h, giao thừa theo giờ địa phương, có tiếng pháo nổ đì đùng, cùng một vài pháo bông từ khu phố người Hoa, làm cho chúng tôi bồi hồi hơn nhớ về cái Tết quê nhà. Không giống như không khí vô tư khi còn là sinh viên, những lúc đó tôi nhớ cái Tết VN, nhớ gia đình da diết. Có lẽ tôi đã có gia đình. Ngày Tết thiếu người thân, vợ con bên cạnh làm cho tôi hiểu rõ hơn hai chữ xa xứ mà thời sinh viên hầu như không tồn tại trong tôi.
Tôi ở cùng căn hộ với một cậu tên là Cảnh, theo hội bên kia. Giao thừa khi tiếng pháo khu người Hoa nổ đì đẹt, chúng tôi thường ngồi với nhau bên chén rượu vang. Chúng tôi kể cho nhau nghe mỗi bên đón Tết ra sao. Bên kia có vẻ đông hơn, Việt kiều trẻ hơn (rất nhiều người ra đi vào 1975 hoặc sau này vượt biên), nhưng bên chúng tôi lại có nhân tố thực tập sinh và NCS từ VN. Bên ta nghe đài tiếng nói VN, bên kia thì chào cờ ba que. Hình như đến tận bây giờ, chiến tranh đã kết thức gần 40 năm, người Việt ở hải ngoại vẫn đón tiếp Tết với hai hội kiểu như vậy.
Sau khi tốt nghiệp NCS cuối năm 1986, tôi luôn được đón Tết tại VN cùng gia đình, cùng người thân. Dù rằng có lần đến tối 30 mới đi công tác về. Chắc chẳng bao giờ tôi có cái Tết xa nhà nữa. 

3 comments:

  1. Có lẽ đến một tuổi nào đó con người thường Hoài niệm về những kỷ niệm xa xưa. Cũng trong dịp Tết này, tình cờ mình cũng nghĩ về những cái Tết xa nhà. Năm 1974, lần đầu tiền mình đón Tết tại đơn Vị Bộ đội mới nhập ngũ, đóng quân tại Tân lạc Hoà Bình. Tết năm đó có lẽ không bao giờ quên được. Từ năm 1979 đến 1985, mình thường đón tết tại đơn Vị ở miền trung. Được biết đến Hương Vị Tết của người Đà Nẵng, Quảng trị và Nghệ an.
    Đón Tết đối với mọi người Việt Nam có lẽ có 2 yếu tố quan trọng, đó là vật chất đặc trưng của Tết như bánh trưng, pháo, mứt, Hoa đào, Hoa mai... Nhưng quan trọng nhất là được ở bên gia đình. Các Tết xa nhà của mình về vật chất không thiếu, nhưng vẫn buồn vì không có người thân. Tuy nhiên cũng được trải nghiệm không khí Tết của các địa phương khác nhau.

    ReplyDelete
  2. Bài của bạn làm mình nhớ lại những ngày tháng sơ tán, những cái tết xa nhà năm xưa. Trại trẻ sơ tán của Báo QĐND ở chùa Yên Ngô, một ngôi chùa nhỏ 5 gian. Tết năm nào các cụ trong thôn xóm cũng đội mâm lên chùa lễ trông rất nhộn nhịp. Lần đầu tiên mình biết các cụ gói bánh trưng, đóng oản nếp ở đây. Các cháu nhỏ đều được các cụ chia lộc cho. Thật là sống trong tình yêu thương đùm bọc của bà con thôn xóm. Thế rồi những năm đi học bên KGU, Tết năm nào cung được tổ chức nhộn nhịp hoành tráng. Thực phẩm được dự kiến để nhà ăn chuẩn bị trước thông qua Hội SV. Lần nào có được một ít nước mắm thì thật là thú vị. Đúng là hương vị quê hương. Thê mà đã hơn 30 năm trôi qua rồi. Mình đã lên chức bà nội. Nhanh thật

    ReplyDelete
  3. Ký ức Tết ở nước ngoài thường gắn với những lần ... Say rượu. Em nhớ ở Nga thiếu rau nên SV Việt nam rất thích làm nộm bắp cải thái nhỏ trộn dầu dấm hồi đó ăn mê ly, bây giờ món đó đã thất truyền.
    Đến thời bọn em thì cũng hết duoc nghe Chúc tết qua Radio, ... :-)))

    ReplyDelete