Tết luôn là một hương vị đặc biệt cho mỗi
con người VN. Tôi cũng vậy.
Khi còn bé, những năm 60 của thế kỷ trước,
cái Tết với tôi vô cùng háo hức cũng như với bao đứa trẻ con khi ấy. Được nghỉ
học, được sắm quần áo mới, được phong bao và được đốt pháo. Lũ trẻ không bận bịu
gì với việc chuẩn bị Tết như người lớn, chúng càng háo hức đón Tết. Món đốt
pháo là món ưa thích nhất của tụi con trai chúng tôi.
Hồi đó ít pháo lắm, mỗi
gia đình được phân phối 1 bánh pháo Bình Đà, gói sẵn trong túi hàng Tết được
mua bằng tem phiếu tại các cửa hàng mậu dịch quốc doanh (gia đình đông người
thì được 2 bánh pháo). Chúng tôi được chia một ít pháo từ bánh pháo đó, số còn
lại bố mẹ dành cho đốt vào lúc giao thừa. Chúng tôi thường dành dụm tiền cá
nhân, trong đó có tiền mừng tuổi để đi mua pháo đốt thêm, không cần phải tem
phiếu gì nhưng bao giờ cũng có sẵn bên ngoài thị trường tự do. Ngoài loại pháo
Bình Đà rất phổ biến to bằng đầu đũa, hồi đó chúng tôi còn chơi thêm pháo tép
(to bằng một phần ba pháo Bình Đà, nhiều màu sắc hơn và nổ nhỏ hơn), hoặc pháo
đùng (to bằng ngón tay, nổ khá to). Cuối cùng là món pháo dây, cháy vào buổi tối,
đêm, ánh sáng cháy lóe sáng kiểu sao băng rất đẹp. Lũ trẻ con hay chơi trò đốt
pháo cầm tay, cậu nào cầm lâu nhất, thậm chí nổ ngay trên tay là được kính nể.
Còn đốt xong rồi quẳng ra xa cho nổ là chuyện tầm thường. Loại kém nhất thì đặt
pháo ở vách nhà, vách cửa rồi cầm que hương đốt. Tôi luôn được kính nể qua những
lần đốt pháo Tết, dù rằng nhiều khi pháo nổ đau cả tay. Lúc nhỏ tôi thường đốt
pháo với bọn trẻ trong xóm. Khi lớn lên chúng tôi các bạn học cùng lớp rủ nhau
ra Bờ Hồ, đốt pháo cho đến lúc giao thừa, khi người lớn nghe thơ Bác Hồ chúc Tết
xong mới giải tán về nhà.
Cái Tết luôn gắn với gia đình. Tôi năm
nào cũng được bố mẹ sáng mùng một Tết cho về nhà bác chị gái bố tôi ở làng Thủ
Lệ ăn Tết cùng bác. Đền Voi Phục luôn có những trò chơi dân gian những ngày Tết,
nhưng tôi chỉ nhìn qua vì không có thời gian dừng chơi.
Do vậy những cái Tết xa nhà là những cái
Tết mà tôi rất khó quên.
Tết
sơ tán xa nhà đầu tiên
Tết đầu tiên xa nhà là Tết Mậu Thân
1968. Năm ấy tôi sơ tán ở huyện Tân Yên, Bắc Giang theo trường mẹ tôi học đại học
khi đó (đại học Chính trị, Bộ Giáo dục). Tết 1967 tôi vẫn được về HN ăn Tết. Tết
1968 tôi không nhớ lý do gì nhưng tôi và mẹ tôi ở lại Bắc Giang, không về HN
như Tết năm trước.
Năm đó ở miền Nam là một Tết vô cùng đặc
biệt với phong trào Tổng tiến công và nổi dậy của cả miền Nam. Nhưng dường như
cái không khí tổng tiến công ấy chẳng ảnh hưởng là bao đến cái làng nông thôn Bắc
Giang khi đó. Có chăng loa đài hát nhiều bài giải phóng hơn, như “Tiến về Sài
Gòn”. “Bão nổi lên rồi”,..
Thế là chẳng có nhiều phong bao mừng tuổi
như ở HN, nơi tôi có nhiều người thân, các dì chú, ông bà, hàng xóm. Sau đó là
hầu như không có pháo để đốt. Tôi được mấy cô cấp dưỡng cho ít pháo Bình Đà, đốt
một tý là hết. Đêm giao thừa không nghe phảo nổ nhiều như ở HN. Làng quê Bắc
Giang những năm chống Mỹ cái Tết cũng đơn sơ. Trẻ con nông thôn cũng khác với
trẻ con HN. Chúng có áo mới rõ hơn trẻ con thành phố, dù sao trẻ con thành phố
trong năm cũng còn được có áo mới. Chúng có mấy trò chơi dân gian như đánh
khăng, ném còn. Tôi cũng tham gia cùng trẻ con trong làng. Chúng còn kéo nhau
ra ruộng chơi trò vật nhau. Tôi cũng tham gia nhưng thường thua vì không có miếng
đánh rõ ràng như trẻ nông thôn ở đó.
Mấy ngày Tết tôi cùng lũ bạn cùng lớp đến
thăm nhà nhau. Đến đâu cũng được mời ăn cơm, mà món thịt đông là điển hình cùng
bánh chưng được gói tròn như bánh tét miền Nam. Tôi không lý giải được vì sao ở
nông thôn Bắc Giang (cho đến tận bây giờ) lại gói bánh chưng tròn chứ không
vuông như các nơi khác. Và rồi bảnh tét trong Nam có liên hệ gì với bánh chưng
tròn ở Bắc Giang? Một thứ bánh tôi cũng được thưởng thức nhiều khi đó là bánh
gio. Tôi còn được xem từ khi người ta đốt cây gio, lấy tro lọc nước hòa bột gạo
rồi gói thành bánh trước khi luộc.
Cảnh ngày Tết ở đồng bằng Bắc Bộ |
Một cái Tết xa nhà, xa HN nhưng đã cho
tôi thêm trải nghiệm về Tết ở nông thôn Bắc Bộ.
Từ Tết 1969 đến Tết 1974, tôi luôn ăn Tết
ở HN cùng gia đình. Cho tới Tết 1975, tôi đón Tết đầu tiên xa Tổ quốc, xa VN: Tết
ở Kisinhôp, Moldova.
Những
cái Tết thời sinh viên
Tết 1975, chúng tôi mới thi học kỳ đầu
tiên. Kỳ thi khá vất vả với chúng tôi, những học sinh khi đó chỉ học tiếng Nga ở
VN rồi sang học ngay năm thứ nhất. Kỳ thi vất vả vì không chỉ là kỳ thi đầu
tiên, mà chúng tôi phải trả môn thi Lịch sử Đảng CSLX, với chúng tôi (dân Toán)
là môn vô cùng hóc búa (mà chúng tôi vẫn gọi là môn nhiều chữ để phân biết với
những môn Toán ít chữ mà nặng về logic).
Do là năm thứ nhất nên chúng tôi chẳng
phải làm gì, các anh chị năm trên lo hết. Năm ấy đâu như khoa Toán và khoa Lý tổ
chức đón Tết chung vì khoa Toán ít người lắm. Về sau Toán Lý có tách ra vì nếu
đón Tết chung cũng không có chỗ.
Những ngày Tết VN, bao giờ các thầy cô ở
trường, ở khoa ngoại quốc cũng có lời chúc mừng nhân dịp năm mới. Ngày hôm 30 Tết
học xong chúng tôi thường về ngay ký túc xá (bình thường còn ở lại trường làm
thí nghiệm, hay đọc sách trên thư viện) để chuẩn bị cho bữa tối. Sau này lên
năm trên chúng tôi thường phải chịu trách nhiệm tổ chức Tết cho khoa Toán. Bao
giờ cũng có món nem rán, bánh đa thường do các bạn năm thứ nhất mới đem sang,
hoặc ai đó về phép đem sang, hoặc bố mẹ ai đó gửi quà. Nhân thì thịt lợn không
thiếu, có cả miến cũng từ VN đem sang, còn lại là bắp cải làm rau, hành thì
cũng có. Trứng thì khi đó ở LX quá rẻ. Khoản mộc nhĩ hay nấm hương hình như
không có.
Món tiếp theo bao giờ cũng có là thịt
rán, cả lợn lẫn gà, tùy tình hình thực phẩm được bán ở các cửa hàng của thành
phố. Ngoài ra có món xào gì đó nữa, thường là xào bắp cải với thịt lợn. Rượu
vang ở Moldova thì không thiếu. Một món mà tôi hay trực tiếp chuẩn bị là nộm. Chúng tôi thường thái nhỏ bắp
cải, thêm ít cà rốt, rồi trộn dấm, đường, và có cả lạc rang giã nhỏ, cũng thường
do ai đó mang từ VN sang. Địa điểm thường là 1 phòng toàn sinh viên VN sống, kê
bàn thêm cho đủ, chuẩn bị bày đặt sao cho 8h tối 30 Tết là xong hết để đúng 8h
tất cả quây quần bên 1 cái Rigonda của một anh/chị năm thứ 5 (sắp về nước nên
bao giờ cũng sắm cái đài này) để nghe lời chúc Tết từ thủ đô HN. Lúc đó ai cũng
bồi hồi nhớ nhà, nhất là các bạn năm thứ nhất mới sang. Giá trị nhất khoản nghe
đài là được nghe tiếng pháo qua đài phát thanh. Tiếng pháo ấy làm cho mỗi chúng
tôi thấy gần VN hơn. Hết lời chúc Tết của đài là chúng tôi nâng cốc chúc mừng
năm mới và bắt đầu bữa tiệc (khá thịnh soạn so với các bữa cơm hàng ngày). Nhiều
khi có các bạn Nga hay Môn cùng tham dự, các bạn đến chúc Tết chúng tôi. Sau
khi đã vui vẻ ăn uống, thường chúng tôi đi chúc Tết các khoa khác, ở các ký túc
xá khác.
Các bạn cùng lớp tôi đến chúc mừng các bạn VN nhân Tết 1979 |
Cuộc vui đón năm mới kéo dài tới khuya
tùy theo tửu lượng của các bạn nam. Dù uống thế nào thì hôm sau chúng tôi vẫn
đi học bình thường. Cái Tết xa VN chỉ có đúng một đêm giao thừa thế thôi.
Có một khoản mà tôi không quên được là
những cành đào giả được chúng tôi làm ra vào dịp Tết. Cành đào ở Moldova thì
không thiếu, chúng tôi chọn cành đẹp và chặt mang về ký túc xá. Các bạn nữ được
phân công cắt giấy pơ-luer hồng làm giả hoa đào. Nhiều bạn khéo tay, cành đào
trông rất đẹp. Không có bành chưng nhưng phần nào chúng tôi cũng đỡ nhớ Tết VN
nhờ những cành đào này.
Tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên đi
chặt cành đào với Hồng Sơn (VL80). Tết 1979 tôi và Sơn rủ nhau đi chặt cành đào
chuẩn bị Tết. Sơn có con xe máy Voxkhot, để trong gara lâu ngày nên không nổ
máy được. Tôi phải đẩy thật lực để giúp Sơn nổ máy. Do đấy quá sức nên tôi lả
đi, chóng mặt phải nằm nghỉ một lúc rồi tôi ngồi sau Sơn lao ra ngoại thành
Kisinhôp. Trời mùa đông rất trơn với băng tuyết, chúng tôi đi như làm xiếc trên
đường. Sau khi chọn được 2 cành đẹp ở một cánh đồng toàn đào, chúng tôi đã cưa
mang về.
Mới đây thôi nhưng Sơn đã xa rời chúng
ta hơn 10 năm rồi.
Những
cái Tết nghiên cứu sinh
Tôi tốt nghiệp đại học trường KGU năm
1979, về công tác tại trường ĐHBK HN. Nguyệt về sau tôi 1 năm. Đầu năm 1981
chúng tôi lập gia đình. Cuối năm 1982 tôi được nhà trường cử sang Pháp làm NCS.
Liên tiếp các Tết 1983 đến 1986 tôi ăn Tết tại Pháp.
Những cái Tết khi tôi làm NCS tại Pháp
khác nhiều so với những cái Tết sinh viên tại Liên Xô. Thành phố tôi học tập là
Grenoble, một thành phố nhỏ nhưng có nhiều trường đại học và viện nghiên cứu khoa
học nằm ở Tây – Nam nước Pháp. Tại đây cũng có nhiều Việt kiều, cả phe ta (theo
chính phủ CHXHCN VN) và phe bên kia (vẫn hoài niệm với chính quyền Sài Gòn cũ).
Hai hội Việt kiều này tổ chức ăn Tết riêng, bình thường họ rất ít giao lưu với
nhau. Chúng tôi, những thực tập sinh và NCS từ VN, dĩ nhiên bao giờ cũng ăn Tết
cùng hội Việt kiều phe ta.
Thực tập sinh và NCS VN đón Tết 1986 (cùng một bác vợ Việt Kiều) |
Hội chủ yếu là những bác Việt kiều xa VN
đã lâu, có nhiều bác là lính thợ (cách gọi những người VN mà chính quyền Pháp
đưa sang Pháp từ thời chiến tranh thế giới thứ 2 để đánh nhau với nước Đức quốc
xã), sau đó ở lại làm ăn sinh sống, nhiều bác lấy vợ đầm, con cái cháu chắt cả
đống. Các bác ấy không được học hành nhiều nên rất quý chúng tôi, luôn tạo điều
kiện giúp đỡ chúng tôi trong học tập. Trong hội cũng có một số trí thức, họ cũng
rất quan tâm đến việc học hành của chúng tôi. Và ngày Tết họ mời chúng tôi đón
Tết cùng họ (mà không phải, hay không được, đóng góp tiền). Chúng tôi cũng được
đại sứ quán chỉ đạo tham gia đón Tết cùng Việt kiều. Chiều 30 Tết chúng tôi
không đến trường hay đến viện, mà ra chỗ hội trường mà các bác Việt kiều đã thuê
cho đêm đón Tết. Chúng tôi đông, trẻ khỏe nên được các bác ấy chỉ đạo làm các
việc khác nhau. Việc nhiều công nhất là làm nem (mà khi đó mọi người toàn gọi
là chả giò theo tiếng miền Nam). Việc này cá nhân tôi quá thạo từ hồi còn là
sinh viên nên thường được phân công vào nhóm làm nem, rồi rán nem. Ở Pháp thì đồ
ăn Tết đầy đủ hơn ở Liên Xô nhiều, có giò chả, bánh chưng (thường do các cửa
hàng người Việt hoặc người Hoa làm). Có năm còn có cả cành đào từ VN sang, nếu
năm đó có người của Đại sứ quán từ Paris xuống cũng ăn Tết. Nói chung chẳng
khác gì đồ ăn, thức uống so với VN, thậm chí có cả dưa hành, mùi, húng hay mùi
Tây, nước mắm, mắm tôm. Đến 6h tối thì giống như hồi ở Liên Xô, tất cả lại bắt
đài tiếng nói VN nghe lời chúc Tết. Sau đó cùng nhau nâng cốc mừng một năm mới.
Bác hội trưởng Việt kiều thế nào cũng phát biểu, tiếp theo là người của Đại sứ
quán, nếu năm đó xuống dự cùng. Rồi tiếp theo là đại diện thực tập sinh và NCS.
Bao giờ cũng có các bạn Pháp tham dự và họ cũng phát biểu. Có năm còn mời được
cả ông quận trưởng quận mà có địa điểm liên hoan Tết, sau được biết ông ta là
người của Đảng cộng sản Pháp.
Xong xuôi, đến khuya tiệc đón năm mới
tan. Chúng tôi ở lại dọn dẹp rồi được các bác Việt kiều đưa về ký túc xá. Đến
lúc 12h, giao thừa theo giờ địa phương, có tiếng pháo nổ đì đùng, cùng một vài
pháo bông từ khu phố người Hoa, làm cho chúng tôi bồi hồi hơn nhớ về cái Tết
quê nhà. Không giống như không khí vô tư khi còn là sinh viên, những lúc đó tôi
nhớ cái Tết VN, nhớ gia đình da diết. Có lẽ tôi đã có gia đình. Ngày Tết thiếu
người thân, vợ con bên cạnh làm cho tôi hiểu rõ hơn hai chữ xa xứ mà thời sinh
viên hầu như không tồn tại trong tôi.
Tôi ở cùng căn hộ với một cậu tên là Cảnh,
theo hội bên kia. Giao thừa khi tiếng pháo khu người Hoa nổ đì đẹt, chúng tôi
thường ngồi với nhau bên chén rượu vang. Chúng tôi kể cho nhau nghe mỗi bên đón
Tết ra sao. Bên kia có vẻ đông hơn, Việt kiều trẻ hơn (rất nhiều người ra đi
vào 1975 hoặc sau này vượt biên), nhưng bên chúng tôi lại có nhân tố thực tập
sinh và NCS từ VN. Bên ta nghe đài tiếng nói VN, bên kia thì chào cờ ba que.
Hình như đến tận bây giờ, chiến tranh đã kết thức gần 40 năm, người Việt ở hải
ngoại vẫn đón tiếp Tết với hai hội kiểu như vậy.
Sau khi tốt nghiệp NCS cuối năm 1986, tôi
luôn được đón Tết tại VN cùng gia đình, cùng người thân. Dù rằng có lần đến tối
30 mới đi công tác về. Chắc chẳng bao giờ tôi có cái Tết xa nhà nữa.
Có lẽ đến một tuổi nào đó con người thường Hoài niệm về những kỷ niệm xa xưa. Cũng trong dịp Tết này, tình cờ mình cũng nghĩ về những cái Tết xa nhà. Năm 1974, lần đầu tiền mình đón Tết tại đơn Vị Bộ đội mới nhập ngũ, đóng quân tại Tân lạc Hoà Bình. Tết năm đó có lẽ không bao giờ quên được. Từ năm 1979 đến 1985, mình thường đón tết tại đơn Vị ở miền trung. Được biết đến Hương Vị Tết của người Đà Nẵng, Quảng trị và Nghệ an.
ReplyDeleteĐón Tết đối với mọi người Việt Nam có lẽ có 2 yếu tố quan trọng, đó là vật chất đặc trưng của Tết như bánh trưng, pháo, mứt, Hoa đào, Hoa mai... Nhưng quan trọng nhất là được ở bên gia đình. Các Tết xa nhà của mình về vật chất không thiếu, nhưng vẫn buồn vì không có người thân. Tuy nhiên cũng được trải nghiệm không khí Tết của các địa phương khác nhau.
Bài của bạn làm mình nhớ lại những ngày tháng sơ tán, những cái tết xa nhà năm xưa. Trại trẻ sơ tán của Báo QĐND ở chùa Yên Ngô, một ngôi chùa nhỏ 5 gian. Tết năm nào các cụ trong thôn xóm cũng đội mâm lên chùa lễ trông rất nhộn nhịp. Lần đầu tiên mình biết các cụ gói bánh trưng, đóng oản nếp ở đây. Các cháu nhỏ đều được các cụ chia lộc cho. Thật là sống trong tình yêu thương đùm bọc của bà con thôn xóm. Thế rồi những năm đi học bên KGU, Tết năm nào cung được tổ chức nhộn nhịp hoành tráng. Thực phẩm được dự kiến để nhà ăn chuẩn bị trước thông qua Hội SV. Lần nào có được một ít nước mắm thì thật là thú vị. Đúng là hương vị quê hương. Thê mà đã hơn 30 năm trôi qua rồi. Mình đã lên chức bà nội. Nhanh thật
ReplyDeleteKý ức Tết ở nước ngoài thường gắn với những lần ... Say rượu. Em nhớ ở Nga thiếu rau nên SV Việt nam rất thích làm nộm bắp cải thái nhỏ trộn dầu dấm hồi đó ăn mê ly, bây giờ món đó đã thất truyền.
ReplyDeleteĐến thời bọn em thì cũng hết duoc nghe Chúc tết qua Radio, ... :-)))